Với Arms Expo, Việt Nam tìm cách đa dạng hóa mua sắm quốc phòng

Với Arms Expo, Việt Nam tìm cách đa dạng hóa mua sắm quốc phòng

Nút nguồn: 1786152

Tuần trước, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã tổ chức Triển lãm Quốc phòng Việt Nam lần đầu tiên, nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, xây dựng lòng tin giữa Việt Nam và các nước, đồng thời giới thiệu nền công nghiệp quốc phòng non trẻ của Việt Nam với thế giới. Quan trọng hơn, VPA muốn đa dạng hóa nguồn vũ khí và thiết bị quốc phòng, cập nhật các xu hướng toàn cầu gần đây về công nghệ quốc phòng và tìm kiếm cơ hội xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng sản xuất trong nước.

Các mục tiêu thứ hai đặc biệt đáng chú ý, được đưa ra những tác động nghiêm trọng rằng cuộc chiến ở Ukraine đã gây ra cho Nga, nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Việt Nam. Triển lãm phản ánh quyết tâm của lực lượng vũ trang Việt Nam giảm sự phụ thuộc nặng nề vào vũ khí Nga. Tuy nhiên, nhu cầu cấp thiết hiện đại hóa quân đội trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông, nền kinh tế đang phát triển với nền tảng công nghệ và công nghiệp đang phát triển, tham vọng phát triển ngành công nghiệp quốc phòng trong nước cũng là những yếu tố khuyến khích quân đội Việt Nam tìm cách thay đổi. chiến lược mua sắm của mình.

Phụ thuộc vào vũ khí Nga

Khoảng 60-70 phần trăm tài sản quân sự của Việt Nam có nguồn gốc từ Liên Xô hoặc Nga. Vì những lý do lịch sử, chính trị và thể chế, vũ khí Nga rất hấp dẫn đối với quân đội so với vũ khí của các nước khác. Việt Nam đã vận hành các hệ thống quân sự kiểu Liên Xô kể từ đầu Chiến tranh Lạnh. Sự phụ thuộc của quân đội Việt Nam vào các hệ thống này đã định hình các thể chế quốc phòng của đất nước và xác định nhiều đặc điểm của chúng. Toàn bộ cơ sở quốc phòng đã được thiết lập để phù hợp với công nghệ quân sự kiểu Xô Viết, về mặt đào tạo, bảo trì và vận hành.

Nhiều thập kỷ sử dụng liên tục các hệ thống này đã giảm đáng kể chi phí vận hành và bảo trì, điều này khiến vũ khí Nga trở nên cực kỳ hấp dẫn. Hơn nữa, các cơ quan mua sắm được thành lập để nhận hỗ trợ quân sự trong thời chiến đã được chuyển đổi thành các doanh nghiệp do quân đội thống trị với các lợi ích được đầu tư, văn hóa quan liêu, và thủ tục mua sắm mờ đục không tương thích với các tiêu chuẩn phương Tây. Đó là chưa kể vốn có mất lòng tin chiến lược quân đội đã thể hiện với các nhà cung cấp quốc phòng phương Tây, vì sự khác biệt về ý thức hệ (nghĩa là nhân quyền) thường được coi là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến sự gián đoạn của việc chuyển giao quân sự trong tương lai. Việc quay lưng lại với vũ khí của Nga sẽ phải chịu một cái giá rất lớn, và giới quân sự có lẽ hiểu điều đó.

Bạn thích bài viết này? Nhấn vào đây để đăng ký để có quyền truy cập đầy đủ. Chỉ $ 5 một tháng.

Đã có nhiều nỗ lực nhằm đa dạng hóa dần dần khỏi sự phụ thuộc quá nhiều vào các hệ thống quân sự của Nga, với nhiều kết quả khác nhau. Ví dụ sớm nhất là của Việt Nam nỗ lực bị hủy bỏ mua máy bay chiến đấu phản lực Mirage-2000 của Pháp vào những năm 1990, nhưng thất bại do lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ vào thời điểm đó. Động lực đằng sau nỗ lực này là hiện đại hóa lực lượng vũ trang, lực lượng mà trong những năm kể từ khi thống nhất đã trở nên lỗi thời và lạc hậu về công nghệ. Thất bại trong việc mua Mirage-2000 cũng đáng chú ý vì Trung Quốc bắt đầu hiện đại hóa lực lượng không quân của mình bằng cách mua lô máy bay phản lực Su-27 đầu tiên từ Nga vào năm 1992. Quan trọng hơn, VPA (đúng) thừa nhận rằng việc mua cùng một khí tài quân sự là kẻ thù tiềm năng của bạn từ cùng một nhà cung cấp (và ngày càng thực dụng) sẽ mang rất nhiều rủi ro chiến thuật.

Hơn nữa, sự tương tác với Nga không phải lúc nào cũng có vấn đề. Kinh nghiệm đóng tàu với Nga đặc biệt đau đớn, được minh họa bằng hai giai đoạn đáng nhớ. Sự trỗi dậy của hải quân Trung Quốc vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 đã thúc đẩy Việt Nam tích cực tìm kiếm sự hợp tác của Nga trong việc đóng tàu chiến của riêng mình. Hai dự án đã được đặt ra: tàu tấn công nhanh (FAC) 500 tấn được trang bị tên lửa chống hạm Kh-35 (tức là BPS-500) và tàu khu trục đa năng 2,000 tấn (tức là KBO-2000). Cả hai đều được thiết kế tại Việt Nam với sự giúp đỡ của Cục thiết kế Severnoye của Nga.

Ngay sau khi nguyên mẫu đầu tiên của BPS-500 được hạ thủy, phần còn lại của dự án đóng tàu hải quân giai đoạn đầu của Việt Nam đã bị dừng lại. Có một số lý do giải thích cho điều này, trong đó nghiêm trọng nhất có lẽ là do thiết kế của FAC đã không đáp ứng được kỳ vọng của hải quân và việc điều chỉnh được coi là tốn thời gian và tiền bạc. Điều này dẫn đến việc cắt đứt hợp tác với Cục Nga, và bắt đầu một nỗ lực khiêm tốn hơn và ít tốn kém hơn của hải quân Việt Nam để bắt đầu thiết kế pháo hạm của riêng mình.

Giai đoạn thứ hai diễn ra vào đầu những năm 2010 khi Việt Nam quyết định mua một số khinh hạm lớp Gegard của Nga. Kế hoạch ban đầu là mua từ sáu đến tám khinh hạm, trong đó hai chiếc đầu tiên được đóng tại Nga và phần còn lại do các công ty đóng tàu Việt Nam chế tạo thông qua chuyển giao công nghệ. Động cơ của các con tàu được cho là do người Ukraine cung cấp. Phần này của thỏa thuận đã đổ vỡ khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014, do đó buộc Việt Nam phải đàm phán với chính Ukraine để có được những phần quan trọng.

Chiến lược mua sắm quốc phòng của Việt Nam

Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lần thứ 12 vào năm 2016, chính sách quân sự của Việt Nam nhấn mạnh đến việc hiện đại hóa “dần dần” một số quân chủng quan trọng, với hải quân và không quân đi đầu. Tranh chấp Biển Đông đã đẩy nhanh tốc độ cải cách tại Đại hội 13 vào năm 2021, sau đó “dần dần” được thay thế bằng “ngay lập tức” như nguyên tắc chỉ đạo của hiện đại hóa.

Hai sự kiện đóng một vai trò quan trọng ở đây. Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí của Hoa Kỳ vào năm 2016 đã giúp Việt Nam có nhiều thời gian hơn trong việc mở rộng nhóm đối tác quốc phòng hiện tại. Quân đội sẽ có cơ hội tiếp xúc chính thức với các nhà thầu quốc phòng phương Tây mà không sợ bị đẩy lùi bởi bất kỳ lệnh cấm vận nào. Chuyển giao công nghệ hay mua phụ tùng thay thế không còn phải đối mặt với nguy cơ bị tổn hại bởi những di sản của quá khứ. Đồng thời, lần đầu tiên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ĐCSVN đặt ra chính sách phát triển công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, lấy tổ hợp công nghiệp quốc phòng mạnh làm nòng cốt. “Lưỡng dụng” là một thuật ngữ có hai hàm ý: tương lai của sự tham gia nhiều hơn của khu vực tư nhân vào tổ hợp công nghiệp-quốc phòng; và nỗ lực tìm kiếm thị trường cho ngành công nghiệp non trẻ, cả trong nước và quốc tế.

Quân đội Việt Nam hiện đang áp dụng chiến lược mua sắm ba hướng để đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa. Các yếu tố của chiến lược này có thể được tìm thấy trong thập kỷ trước năm 2016, nhưng các chính sách công nghiệp mới của đất nước và những bất ổn liên quan đến cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đã khiến những cách tiếp cận này trở nên cấp bách và có sức sống mới.

Thứ nhất, nước này đang cố gắng đa dạng hóa nguồn cung cấp các nền tảng quân sự tiên tiến. Israel đã và đang đóng một vai trò thiết yếu trong nỗ lực này vì hai nước có mối quan hệ quốc phòng bền chặt từ những năm 1990. Cũng có vị trí cao trong danh sách là Ấn Độ (có khả năng mua tên lửa Brahmos) và một số quốc gia Đông Âu như Czechia (với mua của L-39NG vào năm 2021) và Bulgaria (vũ khí nhỏ và vũ khí hạng nhẹ), những quốc gia mà Việt Nam có quan hệ tốt đẹp từ thời Chiến tranh Lạnh. Hợp đồng quốc phòng cao cấp nhất được đàm phán giữa Việt Nam và một quốc gia không thuộc Nga sẽ là 600 triệu USD mua của hệ thống phòng không Spyder từ công ty Rafael của Israel vào năm 2015. Hàn Quốc và Nhật Bản, thậm chí cả Thổ Nhĩ Kỳ, đang được coi là những nhà cung cấp tiềm năng trong tương lai.

Thứ hai, quân đội đang cố gắng kéo dài tuổi thọ của các vũ khí cũ thông qua các dự án hiện đại hóa khác nhau. Trong đó đáng chú ý nhất là nỗ lực nâng cấp xe tăng chiến đấu chủ lực T-54/55 với một sự giúp đỡ nho nhỏ từ Israel. Đây được coi là một cách tiếp cận tạm thời, vì các hệ thống vũ khí cũ, thậm chí được nâng cấp và hiện đại hóa, vẫn không đáng tin cậy và không hiệu quả trong một số trường hợp do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ quân sự.

Bạn thích bài viết này? Nhấn vào đây để đăng ký để có quyền truy cập đầy đủ. Chỉ $ 5 một tháng.

Thứ ba, với kế hoạch đầy tham vọng nhằm phát triển một tổ hợp công nghiệp-quân sự tiên tiến, quân đội đã cố gắng chế tạo vũ khí của riêng mình, từ vũ khí nhỏ cho đến vũ khí công nghệ cao. Ngành công nghiệp quốc phòng non trẻ của nước này đã sản xuất được các phương tiện vũ trang và vũ khí hạng nhẹ như tên lửa chống tăng, súng phóng lựu và súng máy.

Việt Nam cũng đang bắt đầu bước vào khu vực công nghệ cao, với bay không người lái, radartên lửa hành trình chống hạm nay đều có tên trong danh sách do Tập đoàn Viettel dẫn đầu. Cách tiếp cận này đã được thực hiện trong nhiều năm, và được khuyến khích và tăng cường hơn nữa sau khi dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí của Hoa Kỳ. Ví dụ, Israel Weapon Industries có thành lập tại Việt Nam một cơ sở sản xuất để hỗ trợ cung cấp súng trường tấn công Galil 31/32 ACE cho quân đội vào năm 2014. Cũng trong năm 2014, Tập đoàn Damen, một tập đoàn quốc phòng, đóng tàu và kỹ thuật của Hà Lan khai trương nhà máy đóng tàu liên doanh mới tại Việt Nam, từ đó nó đã tăng cường hợp tác với nhiều nhà máy đóng tàu thuộc sở hữu quân sự của đất nước. Nhiều tàu do Damen đóng hiện đang phục vụ trong Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam – một điềm báo khả dĩ về quân đội Việt Nam đa dạng hơn có thể xuất hiện trong tương lai.

Dấu thời gian:

Thêm từ Nhà ngoại giao